Thái Nguyên ứng phó với bệnh bạch hầu

Cập nhật: 10/05/2024

Trong 2 ngày từ 8 –  9/9, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện 2 ca mắc bệnh bạch hầu, trong đó có 1 ca tử vong. Đây là căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong một cách nhanh chóng. Ngay khi có trường hợp nghi ngờ mắc bệnh đầu tiên, tỉnh Thái Nguyên đã có những biện pháp ứng phó kịp thời.

Ngày 7-9, Thái Nguyên xuất hiện trường hợp dương tính với bệnh bạch hầu là nữ sinh T.T.D, có địa chỉ thường trú tại thôn Há Pia, xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn (Hà Giang), đang học lớp 10, Trường Cao đẳng Công nghiệp Thái Nguyên (xã Sơn Cẩm, TP. Thái Nguyên.

Điều tra yếu tố dịch tễ cho biết, ngày 4-9, em D có biểu hiện sốt, đau họng, khó nuốt, khản tiếng, đau ngực (sáng cùng ngày trước khi vào viện vẫn đi học). Do sốt cao liên tục tại trường, em D được y tế Nhà trường điều trị hạ sốt kháng sinh chống viêm nhưng không đỡ. Ngày 7-9, y tế Nhà trường đưa em D đến Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên khám, điều trị và được chẩn đoán suy hô hấp – theo dõi bạch hầu. Đến 16 giờ cùng ngày, bệnh nhân được chuyển đi Bệnh viện Nhi Trung ương điều trị tiếp. Sau 2 ngày điều trị, bệnh nhân thở máy, sốt cao, được chẩn đoán theo dõi nhiễm khuẩn huyết (bạch hầu), tiên lượng nặng. Bệnh nhân tử vong hồi 18 giờ ngày 9-9.

Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh kiểm tra khu cách ly tại Trường Cao đẳng công nghiệp Thái Nguyên, nơi phát hiện ca bệnh bạch hầu.

Như vậy sau rất nhiều năm, đến nay, Thái Nguyên lại xuất hiện trường hợp tử vong do mắc bệnh bạch hầu. Ngành Y tế đã yêu cầu lực lượng y tế thành phố phối hợp với Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh tiến hành cách ly các trường hợp có liên quan đến ca bệnh. Đồng thời chỉ đạo đưa 11 học sinh có triệu chứng vào cách ly, theo dõi, điều trị tại Khoa Bệnh nhiệt đới – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên và tại Khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện A Thái Nguyên. Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh đã lấy mẫu xét nghiệm gửi Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương đối với tất cả các trường hợp này, đến cuối ngày 9/9, 1 trường hợp trong số 6 học sinh đang được theo dõi cách ly tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên cho kết quả dương tính với bệnh bạch hầu là nam sinh L.M.P, sinh năm 2008, đến từ xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn (Hà Giang).

Ngay khi có ca bệnh đầu tiên, các biện pháp phòng dịch tại chỗ đã được triển khai khẩn cấp như phun khử khuẩn tại ổ dịch; điều trị kháng sinh dự phòng cho học sinh và giáo viên tiếp xúc gần với ca bệnh; khoanh vùng và cách ly toàn bộ học sinh nội trú của Trường Cao đẳng Công nghiệp Thái Nguyên; đẩy mạnh tuyên truyền về các biện pháp phòng chống bệnh bạch hầu

Theo Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, bạch hầu là bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Đây là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có khả năng lây lan mạnh qua đường hô hấp và gây bùng phát thành dịch. Căn bệnh này được xếp vào nhóm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm vì có tỷ lệ tử vong cao, khoảng 5 – 10%.

Bệnh bạch hầu lưu hành trên toàn cầu, hay gặp là các ca bệnh tản phát hoặc các vụ dịch nhỏ, chủ yếu ở nhóm dưới 15 tuổi không được tiêm vắc xin. Tuy nhiên hiện nay đã ghi nhận số mắc tăng ở nhóm trẻ lớn và người lớn tại những vùng không được tiêm chủng hoặc tỷ lệ tiêm chủng thấp.

Bệnh lây truyền từ người sang người qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc người lành mang trùng và hít phải các chất tiết đường hô hấp của người bệnh bắn ra khi ho, hắt hơi. Bệnh cũng có thể lây qua tiếp xúc với đồ vật bị ô nhiễm với các chất tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.

Thời kỳ ủ bệnh thường từ 2 đến 5 ngày. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu có sốt, ho, đau họng, hạch góc hàm sưng đau (cổ bạnh), tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc toàn thân, có giả mạc màu trắng xám, dai, dính ở amidal hoặc thành sau họng. Bệnh nhân cũng có thể bị viêm cơ tim, nhiễm độc thần kinh dẫn đến tử vong do ngoại độc tố của vi khuẩn.

Người bệnh và người lành mang trùng vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh, trong đó người lành mang trùng đóng vai trò duy trì nguồn truyền nhiễm ở cộng đồng. Thời kỳ lây truyền thường bắt đầu từ khi khởi phát và kéo dài khoảng 2 tuần, đôi khi lên tới 4 tuần. Trong một số trường hợp đã ghi nhận người mang vi khuẩn mãn tính trên 6 tháng.

Sức đề kháng của vi khuẩn bạch hầu ở ngoài cơ thể rất cao, chịu được khô lạnh, đặc biệt khi được chất nhày bảo vệ. Trên đồ vải như chăn, màn, quần áo, gối có thể sống được 30 ngày; trên cốc, chén, thìa, bát đũa, đồ chơi có thể sống được vài ngày; trong sữa, nước uống sống 20 ngày; trong tử thi sống được 2 tuần. Tuy nhiên, vi khuẩn bạch hầu nhạy cảm với các yếu tố lý, hoá. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp vi khuẩn sẽ bị giết chết sau vài giờ. Ở nhiệt độ 58 độ C, vi khuẩn sống được 10 phút và bị giết chết nhanh chóng ở nhiệt độ sôi. Vi khuẩn cũng dễ bị tiêu diệt bởi các hoá chất khử trùng thông thường. Bên cạnh đó, điều trị kháng sinh đặc hiệu sẽ nhanh chóng tiêu diệt mầm bệnh và chấm dứt sự lây truyền của bệnh.

Mọi lứa tuổi đều có thể bị mắc bệnh nếu không có miễn dịch đặc hiệu hoặc nồng độ kháng thể ở dưới mức bảo vệ. Sau tiêm vắc xin liều cơ bản miễn dịch có thể kéo dài được vài năm song thường giảm dần theo thời gian nếu không được tiêm nhắc lại. Vì vậy, tiêm vắc xin phòng bệnh bạch hầu là biện pháp phòng bệnh quan trọng và hiệu quả nhất.

Đối với trẻ em dưới 1 tuổi bắt đầu được tiêm chủng:

– Tiêm các mũi cơ bản:

Tiêm 3 mũi cơ bản vắc xin có chứa thành phần bạch hầu nguyên liều, thường kết hợp trong các vắc xin 5 trong 1 hoặc vắc xin 6 trong 1.

+ Mũi thứ 1 tiêm lúc 2 tháng tuổi

+ Mũi thứ 2 tiêm lúc 3 tháng tuổi

+ Mũi thứ 3 tiêm lúc 4 tháng tuổi

Tốt nhất nên hoàn thành mũi 3 trước 6 tháng tuổi.

  • Tiêm nhắc lại:

+ Mũi 4: Tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu nguyên liều, tiêm lúc 18 – 24 tháng tuổi.

+ Mũi 5: Tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu giảm liều, lúc 4 – 7 tuổi.

+ Mũi 6: Tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu giảm liều, lúc 9 – 15 tuổi.

Đối với trẻ em trên 1 tuổi và người lớn chưa được tiêm chủng trước đây hoặc không nhớ tiền sử tiêm chủng:

  • Tiêm các mũi cơ bản: Tiêm 3 mũi cơ bản vắc xin có chứa thành phần bạch hầu

+ Mũi 1: tiêm càng sớm càng tốt

+ Mũi 2: tiêm cách mũi thứ 1 tối thiểu 4 tuần

+ Mũi 3: tiêm cách mũi 2 tối thiểu 6 tháng

  • Tiêm nhắc lại: Tiêm nhắc lại 2 mũi vắc xin có chứa thành phần bạch hầu. Các mũi tiêm nhắc lại cách nhau tối thiểu 1 năm.

Bên cạnh việc tiêm vắc xin phòng bệnh, thì các biện pháp phòng dịch thông thường khác cũng cần được chú trọng như:

  • Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, che mieenjh khi ho hoặc hắt hơi.
  • Giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc/nghi ngờ mắc bệnh.
  • Thực hiện tốt vệ sinh nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
  • Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, ăn chín, uống sôi, bát đũa sạch sẽ.

Khi có dấu hiệu mắc bệnh/nghi ngờ mắc bệnh phải thông báo ngay cho cơ quan y tế để được cách ly. Khám, xét nghiệm và điều trị kịp thời. Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc kháng sinh dự phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.

Trang Nhung

Trung tâm Kiểm soát bệnh tật

Bài viết liên quan

Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!

Your email address will not be published. Required fields are marked *

EMC Đã kết nối EMC